Trung tâm Chinese giới thiệu đến các bạn các bài thơ tiếng Trung bất hủ về chủ đề tình yêu. Để cảm nhận tình yêu được diễn tả trong những câu thơ của các thi nhân như thế nào nhé!
Những bài thơ tiếng Trung về tình yêu cực hay
Bài 1. 断章 / Đoạn Chương (Tạm dịch: Bài thơ nhỏ)
Tác giả
– Biện Chi Lâm (卞之琳) là nhà thơ hiện đại của Trung Quốc. Năm 1929 ông học tiếng Anh ở Đại học Bắc Kinh và bắt đầu làm thơ. Phong cách thơ của ông theo trường phái tượng trưng, chú ý trau truốt ngôn từ, câu chữ.
Tác phẩm
断章
你站在桥上看风景,
看风景人在楼上看你。
明月装饰了你的窗子,
你装饰了别人的梦。
duànzhāng
nǐ zhàn zài qiáo shàng kàn fēngjǐng,
kàn fēngjǐng rén zài lóu shàng kàn nǐ.
míngyuè zhuāngshìle nǐ de chuāngzi,
nǐ zhuāngshìle biérén de mèng.
Dịch nghĩa:
Bài thơ nhỏ
Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh,
Người đứng trên lầu ngắm phong cảnh lại ngắm nhìn em.
Trăng sáng tô điểm của sổ phòng em
Em tô điểm giấc mộng của người.
Dịch thơ:
Em đứng trên cầu ngắm cảnh
Người ngắm cảnh trên cầu lại ngắm em
Ánh trăng điểm tô cửa sổ phòng em
Giấc mộng ai kia lại được em tô điểm
(Nguồn: 108 bài thơ tình Trung Hoa (dịch), NXB Thuận Hóa, 1996)
Bài 2. 卜算子 / Bốc Toán Tử
Tác giả
Lý Chi Nghi (李之儀) tên chữ là Đoan Thúc, tự Hiệu Cô Khê cư sĩ, người Vô Lệ ở Thương Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc).
Tác phẩm
卜算子
我住长江头,
君住长江尾。
日日思君不见君,
共饮长江水。
此水几时休?
此恨何时已?
只愿君心似我心,
定不负相思意。
Phiên âm:
bosuànzi
wǒ zhù chángjiāng tóu,
jūn zhù chángjiāng wěi.
rì rì sī jūn bùjiàn jūn,
gòng yǐn chángjiāng shuǐ.
cǐ shuǐ jǐshí xiū?
cǐ hèn héshí yǐ?
zhǐ yuàn jūn xīn sì wǒ xīn,
dìng bù fù xiāngsī yì.
Hán Việt:
Bốc toán tử
Ngã trú Trường Giang đầu,
Quân trú Trường Giang vĩ.
Nhật nhật tư quân bất kiến quân,
Cộng ẩm Trường Giang thuỷ.
Thử thuỷ kỷ thời hưu?
Thử hận hà thời dĩ?
Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm,
Định bất phụ tương tư ý.
Dịch nghĩa:
Thiếp ở đầu Trường Giang,
Chàng ở cuối Trường Giang.
Ngày ngày nhớ chàng chẳng thấy chàng,
Cùng uống nước Trường Giang.
Dòng sông này bao giờ ngừng trôi?
Nỗi hận này bao giờ mới hết?
Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp,
Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau.
Dịch thơ:
Nhà thiếp ở đầu sông,
Nhà chàng ở phía cuối.
Dòng nước Trường Giang cùng uống chung,
Vắng chàng mong sớm tối.
Nước nọ mấy khi ngừng,
Hận này bao thuở vợi.
Những mong ý thiếp giống lòng chàng,
Mối tình quyết không thay đổi.
(Nguồn: Tống từ, Nguyễn Xuân Tảo, NXB Văn học, 1999)
Bài 3. 白头吟 / Bạch Đầu Ngân (Tạm dịch: Khúc ngâm đầu bạc)
Tác giả
Trác Văn Quân (卓文君) là một tài nữ nổi danh thời Tây Hán, nàng xuất thân phú quý, lấy chồng nhưng sớm thành quả phụ. Sau đó, nàng nên duyên với Tư Mã Tương Như.
Tác phẩm
白头吟
皑如山上雪,
皎若云间月。
闻君有两意,
故来相决绝。
今日斗酒会,
明旦沟水头。
躞蹀御沟上,
沟水东西流。
Phiên âm:
Báitóu yín
ái rúshān shàng xuě,
jiǎo ruò yún jiān yuè.
wén jūn yǒu liǎng yì,
gù lái xiāng juéjué.
jīnrì dǒujiǔ huì,
míng dàn gōu shuǐtóu.
xiè dié yù gōu shàng,
gōu shuǐ dōngxī liú.
Hán Việt:
Bạch đầu ngâm
Ngai như sơn thượng tuyết,
Kiểu nhược vân gian nguyệt.
Văn quân hữu lưỡng ý,
Cố lai tương quyết tuyệt.
Kim nhật đấu tửu hội,
Minh đán câu thuỷ đầu.
Tiệp điệp ngự câu thượng,
Câu thuỷ đông tây lưu.
Dịch nghĩa:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng như trăng ở trong mây.
Nghe lòng chàng có hai ý,
Nên thiếp quyết cắt đứt.
Ngày hôm nay nâng chén sum vầy,
Sớm mai đã đưa tiễn nhau ở bên sông.
Đi lững thững trên dòng nước,
Nước cứ chảy xuôi mãi từ đông về tây (mà không quay về).
Dịch thơ:
Trắng như tuyết trên núi,
Sáng tựa trăng giữa mây.
Nghe lòng chàng hai ý,
Thiếp đành đoạn tình này.
Hôm nay chén sum họp,
Đầu sông tiễn sớm mai.
Lững thững theo dòng nước,
Nước mãi chảy đông tây.
(Nguồn: thivien.net)
Bài 4. 秋风词 / Thu Phong Từ
Tác giả
Lý Bạch (李白) , tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Tác phẩm
秋风词
秋风清,
秋月明。
落叶聚还散,
寒鸦栖复惊。
相思相见知何日,
此时此夜难为情
Phiên âm:
Qiūfēng cí
qiūfēng qīng,
qiūyuè míng.
luòyè jù hái sàn,
hán yā qī fù jīng.
xiāngsī xiāng jiàn zhī hé rì,
cǐ shí cǐ yè nánwéiqíng
Hán Việt:
Thu phong từ
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
Thử thì thử dạ nan vi tình…
Dịch nghĩa:
Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp?
Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.
Dịch thơ:
Gió thu lành
Trăng thu thanh
Lá rơi tụ lại tán
Quạ lạnh chợt rùng mình
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp ?
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình…
(Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
Bài 5. 玉楼春-春恨 / Ngọc Lâu Xuân – Xuân Hận
Tác giả
Án Thù (晏殊) tự Đồng Thúc, người huyện Lâm Xuyên (nay thuộc tỉnh Giang Tây), 7 tuổi đã làm văn, về sau làm quan tể tướng. Từ của ông có phong vị xảo diệu, phong cách rất cao.
Tác phẩm
玉楼春-春恨
绿杨芳草长亭路,
年少抛人容易去。
楼头残梦五更钟,
花底离愁三月雨。
无情不似多情苦,
一寸还成千万缕。
天涯地角有穷时,
只有相思无尽处。
Phiên âm:
Yùlóu chūn-chūn hèn
lǜ yáng fāng cǎo chángtíng lù,
niánshào pāo rén róngyì qù.
lóu tóu cán mèng wǔ gēng zhōng,
huā dǐ líchóu sān yuè yǔ.
wúqíng bù shì duōqíng kǔ,
yīcùn hái chéng qiān wàn lǚ.
tiānyá de jiǎo yǒu qióng shí,
zhǐyǒu xiāngsī wújìn chù.
Hán Việt:
Ngọc lâu xuân – Xuân hận
Lục dương phương thảo trường đình lộ,
Niên thiếu phao nhân dung dị khứ.
Lâu đầu tàn mộng ngũ canh chung,
Hoa để ly sầu tam nguyệt vũ.
Vô tình bất tự đa tình khổ,
Nhất thốn hoàn thành thiên vạn lũ.
Thiên nhai địa giác hữu cùng thì,
Chỉ hữu tương tư vô tận xứ.
Dịch nghĩa:
Liễu xanh, cỏ thơm ở trường đình bên đường,
Tuổi trẻ dễ dàng bỏ người lại mà đi mất.
Trên lầu cao, tiếng chuông canh năm làm tỉnh giấc mộng,
Dưới hoa, mưa tháng ba gợi lại nỗi sầu ly biệt.
Kẻ vô tình đâu như (đâu thấu hiểu) nỗi khổ của người đa tình,
Một tấc tương tư cũng biến thành ngàn vạn sợi sầu khổ.
Chân trời góc bể cũng có nơi cùng tận,
Chỉ có lòng tương tư là không có kết thúc.
Dịch thơ:
Liễu xanh cỏ ngát hương ngoài lộ
Tuổi trẻ ra đi đâu có khó
Trên lầu trằn trọc suốt năm canh
Ly biệt tháng ba hoa ướt rũ
Vô tình nào khổ tựa đa tình
Một tấc tơ lòng muôn vạn mớ
Chân trời mặt đất còn chia ngăn
Chỉ có nhớ nhau không hạn chỗ
(Nguồn: bản dịch của dịch giả Nguyễn Đương Tịnh)
Bài 6. Tương Tư 《相思》 Xiāngsī
Tác giả – Vương Duy – Đường
Tác phẩm
作者 – 王维 – 唐
红豆生南国,
春来发几枝?
愿君多采撷,
此物最相思!
Phiên âm:
zuò zhě – wáng wéi – táng
hóng dòu shēng nán guó,
chūn lái fā jǐ zhī?
Yuàn jūn duō cǎi xié,
cǐ wù zuì xiāng sī
Hán Việt:
Hồng đậu sinh nam quốc
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương tư.
Nước nam sinh đậu đỏ
Xuân về nở cành xinh
Chàng ơi hái nhiều nhé
Nhớ nhau tha thiết tình
(Người dịch: Hải Đà)
Bài 7. Hồng Đậu Từ 《红豆词》 “Hóng dòu cí”
Tác giả: Tào Tuyết Cần – thời Thanh
Tác phẩm
作者: 曹雪芹 – 清
滴不尽相思血泪抛红豆
开不完春柳春花满画楼
睡不稳纱窗风雨黄昏后
忘不了新愁与旧愁
咽不下玉粒金波噎满喉
瞧不尽镜里花容瘦
展不开的眉头挨不明的更漏
呀! ……
恰便似遮不住的青山隐隐
流不断的绿水悠悠
Phiên âm:
zuò zhě: Cáo xuě qín – qīng
dī bù jìn xiāng sī xuè lèi pāo hóng dòu
kāi bù wán chūn liǔ chūn huā mǎn huà lóu
shuì bù wěn shā chuāng fēng yǔ huáng hūn hòu
wàng bù liǎo xīn chóu yǔ jiù chóu
yàn bù xià yù lì jīn bō yē mǎn hóu
qiáo bù jìn jìng lǐ huā róng shòu
zhǎn bù kāi de méi tóu āi bù míng de gèng lòu
Ya……
qià biàn shì zhē bù zhù de qīng shān yǐn yǐn
liú bù duàn de lǜ shuǐ yōu yōu
Hán Việt:
Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu
Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu
Thụy bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu
Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu
Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu
Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu
Triển bất khai để my đầu
Nhai bất minh để canh lậu
Nha!
Kháp tiện tự: già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn
Lưu bất đoạn để lục thuỷ du du.
Dịch nghĩa
Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ
Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn
Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng (ko nuốt được)
Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu
Đầu mày giương chẳng mở
Canh khuya cứ lần lữa không sáng
A!
Vừa đúng như: non xanh thấp thoáng không ngăn lại được
Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng
Dịch thơ
Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ
Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son,
Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa
sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn
Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc
Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy
Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết
Chao ôi !
Non xanh thấp thoáng không ngăn được
Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừng.
(Lạc Nhạn dịch)
Bài 8. Tương Tư Khúc 《相思曲》 “Xiāngsī qū”
Tác giả: Đới Thúc Luân thời Đường
Tác phẩm
作者:戴叔伦 – 唐。
高楼重重闭明月,
肠断仙郎隔年别。
紫萧横笛寂无声,
独向瑶窗坐愁绝。
鱼沉雁杳天涯路,
始信人间别离苦。
恨满牙床翡翠衾,
怨折金钗凤凰股。
井深辘轳嗟绠短,
衣带相思日应缓。
将刀斫水水复连,
挥刃割情情不断。
落红乱逐东流水,
一点芳心为君死。
妾身愿作巫山云,
飞入仙郎梦魂里。
Phiên âm:
zuòzhě: Dài shū lún – táng.
Gāo lóu chóng chóng bì míng yuè,
cháng duàn xiān láng gé nián bié.
Zǐ xiāo héng dí jì wú shēng,
dú xiàng yáo chuāng zuò chóu jué.
Yú chén yàn yǎo tiān yá lù,
shǐ xìn rén jiān bié lí kǔ.
Hèn mǎn yá chuáng fěi cuì qīn,
yuàn zhé jīn chāi fèng huáng gǔ.
Jǐng shēn lù lú jiē gěng duǎn,
yī dài xiāng sī rì yīng huǎn.
Jiāng dāo zhuó shuǐ shuǐ fù lián,
huī rèn gē qíng qíng bù duàn.
Luò hóng luàn zhú dōng liú shuǐ,
yī diǎn fāng xīn wèi jūn sǐ.
Qiè shēn yuàn zuò wū shān yún,
fēi rù xiān láng mèng hún lǐ.
Hán Việt:
Cao lâu trùng trùng bế minh nguyệt,
Trường đoạn tiên lang cách niên biệt.
Tử tiêu hoành địch tịch vô thanh,
Độc hướng dao song toạ sầu tuyệt.
Ngư trầm nhạn diểu thiên nhai lộ,
Thuỷ tín nhân gian biệt ly khổ.
Hận mãn nha sàng phí thuý khâm,
Oán chiết kim thoa phụng hoàng cổ.
Tỉnh thâm lộc lư ta cảnh đoản,
Y đới tương tư nhật ưng hoãn.
Tương đao phá thuỷ thuỷ phục liên,
Huy nhẫn cát tình tình bất đoạn.
Lạc hồng loạn trục đông lưu thuỷ,
Nhất điểm phương tâm vị quân tử.
Thiếp thân nguyện tác Vu Sơn vân,
Phi nhập tiên lang mộng hồn lý.
Dịch nghĩa
Lầu cao lớp lớp che trăng sáng,
Đau lòng vì suốt năm xa cách chàng.
Tiêu im sáo lặng không nghe tiếng,
Một mình ngồi buồn nhìn ra song cửa ngọc.
Cá lặn chim bay chân trời góc biển,
Biệt ly không được tin thư thật khổ.
Oán đầy giường ngà chăn phí thuý,
Giận bẻ gãy kim thoa phượng hoàng.
Giếng sâu ròng rọc than giây ngắn,
Ngày trôi chậm, xiêm y cũng nặng tương tư.
Dùng dao chém nước nước liền trở lại,
Cầm kéo cắt tình tình không chịu đứt.
Hồng rụng tơi bời theo dòng nước chảy về đông,
Một tấm tình son vì người mà tàn lụi.
Thiếp nguyện làm mây núi Vu (Sơn),
Bay nhập vào giấc mộng trong hồn chàng.
Dịch thơ
Mảnh trăng thanh lầu cao che khuất
Lòng đau vì xa cách nhiều năm
Tiếng tiêu điệu sáo lặng im
Một mình buồn bã ngóng nhìn phương xa
Bên chân trời chim bay cá lặn
Mòn mõi vì âm tín không về
Chiếu chăn hờn oán não nề
Kim thoa bẻ gãy lời thề còn đâu
Giếng nước sâu mà giây thì ngắn
Xiêm y buồn người chẳng điểm trang
Dùng dao chém nước nước liền
Kéo kia cắt đứt mối tình được không?
Theo dòng nước loạn hồng trôi mãi
Tấm tình em một phiến vì chàng
Xin làm mây núi Vu Sơn
Nhập sâu vào cõi mộng hồn người thương.
(Phan Lang dịch)
⇒ Xem thêm bài viết hay: Tuyển tập những bài thơ Hán Việt của các thi sĩ nổi tiếng Trung Quốc
Chúc các bạn học tiếng Trung tiến tới. Cám ơn các bạn đã ghé thăm website của chúng tôi.
Nguồn: chinese.com.vn
Bản quyền thuộc về: Trung tâm tiếng Trung Chinese
Vui lòng không copy khi chưa được sự đồng ý của tác giả.
Tác giả cho em xin phép lấy vài câu thơ đã dịch nghĩa là làm cập nhật trạng thái FB nhé