Những bài thơ tiếng Trung về cuộc sống rất nổi tiếng tại Trung Quốc của các thi sĩ nổi tiếng dưới đây hy vọng sẽ giúp bạn phần nào hiểu biết thêm về văn hóa Trung Quốc và học tiếng Trung tốt hơn !
Những bài thơ Hán Việt về cuộc sống hay và ý nghĩa
1. 山居秋暝 / Sơn Cư Thu Minh
Tác giả:
Vương Duy (王维): ông là nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, nhà viết thư pháp và chính khách nổi tiếng thời Thịnh Đường. Vương Duy để lại rất nhiều bài thơ lưu danh thiên cổ và nhiều bức tranh nổi tiếng truyền đời, “Sơn Cư Thu Minh” là một trong số đó.
Tác phẩm:
山居秋瞑
空山新雨后,
天气晚来秋。
明月松间照,
清泉石上流。
竹喧归浣女,
莲动下渔舟。
随意春芳歇,
王孙自可留。
Phiên âm:
Hán Việt:
Sơn cư thu minh
Không sơn tân vũ hậu,
Thiên khí vãn lai thu.
Minh nguyệt tùng gian chiếu,
Thanh tuyền thạch thượng lưu.
Trúc huyên quy hoán nữ,
Liên động há ngư chu.
Tùy ý xuân phương yết,
Vương tôn tự khả lưu.
Dịch nghĩa:
Ngọn núi vắng sau cơn mưa
Thời tiết ban đêm đã là thu rồi
Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng
Suối nước xanh chảy trên đá
Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về
Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống
Tùy ý, hương xuân đã hết
Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên
Dịch thơ:
Núi vắng cơn mưa tan
Chiều thu bóng khuất tàn
Lá tùng trăng sáng rọi
Ghềnh đá suối xanh tràn.
Trúc vang hò thiếu nữ
Sen động tiếng thuyền nan
Tùy ý hương xuân tận
Vương tôn vẫn bàn hoàn.
(Nguồn: Thanh Vân Thi Tập)
2. 野老歌 / Dã Lão Ca (Tạm dịch: Bài ca về lão nông dân)
Tác giả:
Trương Tịch (張籍): tên chữ Văn Xương, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường (766 – 827), đậu tiến sĩ dưới thời vua Đức Tông. Ông là danh sĩ được nhiều người mến mộ.
Tác phẩm:
野老歌
老农家贫在山住,耕种山田三四亩。
苗疏税多不得食,输入官仓化为土。
岁暮锄犁傍空室,呼儿登山收橡实。
西江贾客珠百斛,船中养犬长食肉。
Phiên âm:
Yě lǎo gē
lǎo nóngjiā pín zài shān zhù, gēngzhòng shāntián sānsì mǔ
miáo shū shuì duō bùdé shí, shūrù guān cāng huà wéi tǔ
suìmù chú lí bàng kōng shì, hū er dēngshān shōu xiàng shí
xījiāng jiǎ kè zhū bǎi hú, chuán zhōng yǎng quǎn zhǎng shíròu
Hán Việt:
Dã lão ca
Lão nông gia bần tại sơn trú,
Canh chủng sơn điền tam tứ mẫu.
Miêu sơ thuế đa bất đắc thực,
Thâu nhập quan thương hoá vi thổ.
Tuế mộ sừ lê bàng không thất,
Hô nhi đăng sơn thu tượng thực.
Tây Giang cổ khách châu bách hộc,
Thuyền trung dưỡng khuyển trường thực nhục.
Dịch nghĩa:
Ông lão nhà nghèo ở trong núi,
Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu.
Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn,
Gom về kho quan để mốc thành đất.
Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không,
Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn.
Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc,
Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.
Dịch thơ:
Ông lão nghèo nhà trong vùng núi
Cầy cấy ba bốn mẫu đất hoang
Thuế nhiều không lúa để ăn
Gom về để mục kho quan dư thừa
Đến cuối năm cày bừa dựa vách
Hạt dẻ rừng tìm cách thay cơm
Nhà buôn châu báu cả trăm
Trên thuyến chó có thịt ăn hàng ngày.
(Nguồn: thivien.net)
3. 山中寡妇 / Sơn Trung Quả Phụ (Tạm dịch: Người đàn bà góa ở trong núi)
Tác giả:
Đỗ Tuân Hạc (杜荀鶴) là nhà thơ thời Vãn Đường. Ông xuất thân nhà nghèo, thi cử lận đận, mãi tới năm 46 tuổi mới đậu tiến sĩ. Đậu rồi cũng long đong trên con đường làm quan, làm tham mưu cho một mạc phủ được hai năm, ông chán nản về núi ẩn cư.
Tác phẩm:
山中寡妇
夫因兵死守蓬茅,
麻苎衣衫鬓发焦。
桑柘废来犹纳税,
田园荒后尚征苗。
时挑野菜和根煮,
旋斫生柴带叶烧。
任是深山更深处,
也应无计避征徭。
Phiên âm:
shānzhōng guǎfù
fū yīn bīng sǐshǒu péng máo,
má zhù yīshān bìnfà jiāo.
sāng zhè fèi lái yóu nàshuì,
tiányuán huāng hòu shàng zhēng miáo.
shí tiāo yěcài hé gēn zhǔ,
xuán zhuó shēng chái dài yè shāo.
rèn shì shēnshān gēngshēn chù,
yě yīng wú jì bì zhēng yáo.
Hán Việt:
Sơn trung quả phụ
Phu nhân binh tử thủ bồng mao,
Ma trữ y sam mấn phát tiêu.
Tang giá phế lai do nạp thuế,
Điền viên hoang hậu thượng chinh miêu.
Thì khiêu dã thái hòa căn chử,
Toàn chước sinh sài đới diệp thiêu.
Nhậm thị thâm sơn canh thâm sứ,
Dã ưng vô kế tỵ chinh đao.
Dịch nghĩa:
Chồng chết trận,một mình giữ nếp nhà tranh
Áo bằng gai, đầu tóc vàng khè
Việc tằm tang bỏ hoang rồi,thuế vẫn phải nộp
Ruộng vườn không trồng trọt,còn bị đòi thuế thóc lúa
Bửa ăn thường hái rau dại nấu cả rễ
Thiếu củi,đem cành tươi vừa chặt được,để cả lá mà đốt
Dù vào tận núi sâu,càng sâu hơn nữa
Cũng không cách nào trốn khỏi đóng thuế đi phu.
Dịch thơ:
Chết chồng, bà giữ túp tranh khô
Quần áo đay gai, mái tóc thô
Dâu cửi bỏ không còn nạp thuế
Ruộng vườn để phế vẫn đòi tô
Rau đồng lẫn rễ cho qua bữa
Củi lá tươi nguyên cũng đốt lò
Dù ở rừng sâu nơi quạnh vắng
Phu phen thuế má cũng theo về
(Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
4. 观田家 / Quan Điền Gia (Tạm dịch: Quan sát nhà nông)
Tác giả:
Vi Ứng Vật (韋應物) là người thời Đường, lúc đầu làm Tam vệ lang cho Đường Huyền Tông, về sau chịu khó đọc sách, đến đời Đức Tông làm quan thứ sử Tô Châu. Ông tính cao khiết, thích đốt hương ngồi một mình.
Tác phẩm:
观田家
微雨众卉新,
一雷惊蛰始。
田家几日闲?
耕种从此始。
丁壮俱在野,
场圃亦就理。
归来景常晏,
饮犊西涧水。
饥劬不自苦,
膏泽且为喜。
仓廪无宿储,
徭役犹未已。
方惭不耕者,
禄食出闾里。
Phiên âm:
guān tiánjiā
wēi yǔ zhòng huì xīn,
yī léi jīngzhé shǐ.
tiánjiā jǐ rì xián?
gēngzhòng cóngcǐ shǐ.
dīng zhuàng jù zàiyě,
chǎng pǔ yì jiù lǐ.
guīlái jǐng cháng yàn,
yǐn dú xī jiàn shuǐ.
jī qú bù zì kǔ,
gāo zé qiě wèi xǐ.
cānglǐn wú sù chǔ,
yáoyì yóu wèi yǐ.
fāng cán bù gēng zhě,
lù shí chū lǘlǐ.
Hán Việt:
Vi vũ chúng huỷ tân,
Nhất lôi kinh trập thuỷ.
Điền gia kỷ nhật nhàn?
Canh chủng tòng thử thuỷ.
Đinh tráng câu tại dã,
Trường phố diệc tựu lý.
Qui lai cảnh thường yến,
Ẩm độc tây giản thuỷ.
Cơ cù bất tự khổ,
Cao trạch thả vi hỉ.
Thương lẫm vô túc trừ,
Dao dịch do vị dĩ.
Phương tàm bất canh giả,
Lộc thực xuất lư lý.
Dịch nghĩa:
Quan điền gia
Mưa nhỏ làm mọi loài cỏ nảy mầm mới,
Một cơn sấm chớp bắt đầu hiện tượng kinh trập.
Nhà nông được bao nhiêu ngày nhàn rỗi rồi?
Nay bắt đầu cày đất và gieo hạt theo ngay hiện tượng bắt đầu này.
Người lớn khoẻ mạnh đều ra đồng,
Ruộng vườn đều được sửa sang.
Thường trở về nhà trễ khi nắng sắp tắt,
Bê, nghé uống nước nơi suối phía tây.
Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt nhọc,
Chịu mưa ướt cho đất được thấm nhuần là điều vui mừng.
Trong vựa, đụn chẳng có thóc lúa gì cả,
Làm để trả thuế cho quan và tô cho chủ đất còn chưa đủ.
Thấy điều này mới thấy hổ thẹn cho kẻ không làm ruộng như ta,
Bổng lộc và cái ăn đều do làng xã cung ứng.
Dịch thơ:
Vừa mưa nhỏ cỏ mọc mầm ngay,
Sấm chớp bắt đầu kinh trập đây.
Ngày rỗi nhà nông đâu được mấy,
Đúng thời cày cấy giống liền tay.
Tráng trai khoẻ mạnh ra đồng cả,
Vườn ruộng chăm lo cứ miệt mài.
Thường trở về nhà khi nắng tắt,
Nghé bê uống nước suối bờ tây.
Nhọc nhằn đói khát nào đâu quản,
Mưa ướt, đất nhuần cảm thấy vui.
Trong vựa đụn không còn thóc lúa,
Thuế tô chẳng đủ, khó khăn hoài.
Thẹn mình không mó việc điền tang,
Bổng lộc, miếng cơm nợ xóm làng!
(Nguồn: thivien.net)
5. 春中田园作 / Xuân Trung Điền Viên Tác (Tạm dịch: Giữa xuân ở ruộng vườn)
Tác giả: Vương Duy (王维)
Tác phẩm:
春中田园作
屋上春鸠鸣,
村边杏花白。
持斧伐远扬,
荷锄觇泉脉。
归燕识故巢,
旧人看新历。
临觞忽不御,
惆怅远行客。
Phiên âm:
Chūn zhōng tiányuán zuò
Wūshàng chūn jiū míng,
Cūn biān xìng huā bái.
Chí fǔ fá yuǎnyáng,
Hè chú chān quán mài.
Quī yàn shì gù cháo,
Jiù rén kàn xīn lì.
Lín shāng hū bù yù,
Chóuchàng yuǎn xíng kè.
Hán Việt:
Xuân trung điền viên tác
Ốc thượng xuân cưu minh,
Thôn biên hạnh hoa bạch.
Trì phủ phạt viễn dương,
Hà sừ chiêm tuyền mạch.
Quy yến thức cố sào,
Cựu nhân khán tân lịch.
Lâm thương hốt bất ngự,
Trù trướng viễn hành khách.
Dịch nghĩa:
Chim xuân cưu kêu trên mái nhà,
Hoa hạnh trắng thông bên đang nở.
Cầm rìu chặt cành vươn xa,
Lấy cuốc khơi mạch suối.
Chim én bay về nhận ra tổ cũ của mình,
Người cũ xem lịch mới.
Cầm chung rượu trên tay nhưng không uống,
Xót thương người phương xa.
Dịch thơ:
Xuân cưu kêu mái nhà
Hạnh trắng vườn đơm hoa
Rìu chặt cành xa vướng
Cuốc khai mạch suối ra
Én về hay tổ cũ
Lịch mới người xem qua
Rót rượu mà chưa uống
Nghĩ thương người chốn xa
(Nguồn: Tuyển tập thơ Đường – Quyển I, NXB Văn Nghệ, 2009)
***Xem thêm:
Những bài thơ Hán Việt nổi tiếng Trung Quốc
Tuyển tập các bài thơ Hán Việt về tình yêu Cực hay
Chúc các bạn học tốt tiếng Trung. Cám ơn các bạn đã ghé thăm website của chúng tôi.
Nguồn: chinese.com.vn
Bản quyền thuộc về: Trung tâm tiếng Trung Chinese
Vui lòng không coppy khi chưa được sự đồng ý của tác giả.
.