Bài 98: Giáo trình Hán ngữ Quyển 6 – Tình yêu giữa người và hổ [Phiên bản cũ]

Trong cuộc sống, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên luôn ẩn chứa những điều kỳ diệu. Câu chuyện Tình yêu giữa người và hổ kể về tình bạn hiếm có giữa một gia đình nhỏ và một con hổ hoang dã.

Từ cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ đến sự gắn bó sâu sắc, câu chuyện đã thể hiện rõ tình yêu thương, sự tin tưởng và mối liên kết đặc biệt giữa con người và loài vật. Qua đó, Bài 98 của giáo trình Hán ngữ quyển 6 trong bộ giáo trình Hán ngữ 6 quyển truyền tải thông điệp nhân văn về lòng nhân ái, sự trân trọng thiên nhiên và tình cảm chân thành có thể vượt qua mọi ranh giới.

→Xem lại Bài 97: Giáo trình Hán ngữ Quyển 6 Phiên bản cũ

Bài viết đề cập đến nội dung sau: ⇓

Từ vựng

Chữ Hán Pinyin Từ loại Nghĩa Hán Việt Tiếng Việt Ví dụ
农场 nóngchǎng Danh từ Nông trường Nông trường 农场里有很多动物。(Trong nông trường có rất nhiều động vật.)
māo Danh từ Miêu Con mèo 这只猫很可爱。(Con mèo này rất dễ thương.)
初夏 chūxià Danh từ Sơ hạ Đầu hạ 初夏的天气很舒服。(Thời tiết đầu hạ rất dễ chịu.)
分说 fēnshuō Động từ Phân thuyết Biện bạch, trình bày 请你详细分说一下这个问题。(Hãy giải thích chi tiết vấn đề này.)
老虎 lǎohǔ Danh từ Lão hổ Hổ, cọp 老虎是森林之王。(Hổ là vua của rừng xanh.)
松树 sōngshù Danh từ Tùng thụ Cây tùng, cây thông 松树一年四季常绿。(Cây thông xanh tươi quanh năm.)
发颤 fāchàn Động từ Phát chiến Sợ run 她害怕得全身发颤。(Cô ấy sợ đến mức toàn thân run rẩy.)
胡子 húzi Danh từ Hồ tử Râu 他的胡子很长。(Râu của anh ấy rất dài.)
cùn Danh từ Thốn Tấc 这个盒子只有一寸高。(Chiếc hộp này chỉ cao một tấc.)
shū Động từ Chải 请用梳子梳头发。(Hãy dùng lược để chải tóc.)
máo Danh từ Mao Lông 狗的毛很柔软。(Lông của con chó rất mềm mại.)
呜呜 wūwū Tượng thanh Ô ô U u, ù ù 风吹过树林,呜呜作响。(Gió thổi qua rừng cây, phát ra tiếng u u.)
稍稍 shāoshāo Phó từ Sào sào Chút ít, một chút 稍稍调整一下角度。(Chỉnh lại góc độ một chút.)
大意 dàyì Tính từ Đại ý Lo rằng, sơ suất 你要小心,不要太大意。(Bạn phải cẩn thận, đừng quá bất cẩn.)
wěn Động từ Vấn Hôn 她吻了孩子的额头。(Cô ấy hôn lên trán đứa bé.)
谢天谢地 xiè tiān xiè dì Thành ngữ Tạ thiên tạ địa Cảm ơn trời đất 谢天谢地,他终于回来了!(Cảm ơn trời đất, cuối cùng anh ấy đã trở về!)
侥巧 qiǎoqiǎo Phó từ Khấp xảo Vừa may, vừa khéo 他侥巧地躲过了危险。(Anh ấy vừa khéo né tránh được nguy hiểm.)
猎枪 lièqiāng Danh từ Liệp thương Súng săn 猎人带着猎枪进山。(Thợ săn mang theo súng săn vào rừng.)
开枪 kāi qiāng Động từ Khai thương Nổ súng 他突然开枪了。(Anh ấy bất ngờ nổ súng.)
脖子 bózi Danh từ Bột tử Cổ 她的脖子上戴着一条项链。(Cô ấy đeo một chiếc vòng cổ trên cổ.)
tuō Động từ Đà Lôi, kéo 他拖着沉重的行李走路。(Anh ấy kéo vali nặng đi bộ.)
屁股 pìgu Danh từ Tị cốt Đít, mông 他坐在地上,屁股很疼。(Anh ấy ngồi xuống đất, mông rất đau.)
一连 yīlián Phó từ Nhất liên Liên, liên tiếp 他一连打了三次电话。(Anh ấy gọi điện liên tục ba lần.)
野兔 yètù Danh từ Dã thố Thỏ rừng 野兔跑得很快。(Thỏ rừng chạy rất nhanh.)
伙伴儿 huǒbànr Danh từ Hỏa bạn Bạn bè, nhóm, bằng 他们是好伙伴。(Họ là bạn tốt của nhau.)
不声不响 bù shēng bù xiǎng Thành ngữ Bất thanh bất hưởng Yên lặng, không tiếng động 他不声不响地离开了。(Anh ấy rời đi trong im lặng.)
习以为常 xí yǐ wéi cháng Thành ngữ Tập dĩ vi thường Làm mãi thành quen 每天早上锻炼已经习以为常。(Luyện tập thể dục mỗi sáng đã trở thành thói quen.)
圈儿 quānr Danh từ Khuyến nhi Vòng 他在纸上画了一个圈儿。(Anh ấy vẽ một vòng tròn trên giấy.)
Động từ Ngoạ Nằm 狗喜欢卧在阳光下。(Chó thích nằm dưới ánh mặt trời.)
水汪汪 shuǐwāngwāng Tính từ Thủy uông uông Long lanh 她的眼睛水汪汪的,很可爱。(Mắt cô ấy long lanh, rất đáng yêu.)
Danh từ Nha Răng 他的牙齿很白很整齐。(Răng của anh ấy trắng và đều.)
喂养 wèiyǎng Động từ Duy dưỡng Nuôi dưỡng 妈妈每天喂养小猫。(Mẹ cho mèo con ăn mỗi ngày.)
健壮 jiànzhuàng Tính từ Kiện tráng Mạnh khỏe, tráng kiện 他是个健壮的年轻人。(Anh ấy là một chàng trai khỏe mạnh.)
舌头 shétóu Danh từ Thiệt đầu Lưỡi 蛇的舌头很细长。(Lưỡi của con rắn rất mảnh và dài.)
tiǎn Động từ Liếm Liếm 小狗舔了舔我的手。(Chó con liếm tay tôi.)
半大 bàndà Tính từ Bán đại Nhỏ, choai, đang lớn 这个孩子已经半大了。(Đứa trẻ này đã lớn một nửa rồi.)
黑熊 hēixióng Danh từ Hắc hùng Gấu đen 黑熊生活在森林里。(Gấu đen sống trong rừng.)
勇敢 yǒnggǎn Tính từ Dũng cảm Dũng cảm, gan dạ 他是个勇敢的战士。(Anh ấy là một chiến binh dũng cảm.)
进攻 jìngōng Động từ Tiến công Tiến công 队伍开始进攻敌人。(Đội quân bắt đầu tấn công kẻ địch.)
zhuī Động từ Truy Đuổi theo 他追着朋友玩。(Anh ấy đuổi theo bạn chơi.)
diào Danh từ Điều Điều động 他被调到另一个部门。(Anh ấy được điều động sang bộ phận khác.)
杂技团 zájìtuán Danh từ Tạp kỹ đoàn Đoàn xiếc, gánh xiếc 他们观看了杂技团的表演。(Họ đã xem màn biểu diễn của đoàn xiếc.)
失落感 shīluògǎn Động từ Thất lạc cảm Mất (cái gì đó) 失落感让他很难受。(Cảm giác mất mát khiến anh ấy rất khó chịu.)
摇动 yáodòng Danh từ Dao động Lay, lắc 风吹过树叶摇动。(Gió thổi làm lay động lá cây.)
尾巴 wěibā Danh từ Vĩ ba Đuôi 这只狗的尾巴很长。(Đuôi của con chó này rất dài.)
wǎn Danh từ Oản Bát 他用碗吃饭。(Anh ấy ăn cơm bằng bát.)
饥饿 jī’è Danh từ Cơ ngạ Đói, đói khát 他因为饥饿而晕倒了。(Anh ấy ngất xỉu vì đói.)
思绪 sīxù Động từ Tư tự Tư duy, suy nghĩ, tâm trạng 她的思绪很乱,不知道该怎么办。(Tâm trí cô ấy rối bời, không biết phải làm gì.)
fàng Phó từ Phóng Thả, buông ra 请把东西放在桌子上。(Hãy đặt đồ vật lên bàn.)
独自 dúzì Động từ Độc tự Một mình, riêng 他独自一个人去旅行。(Anh ấy đi du lịch một mình.)
躲避 duǒbì Tính từ Đóa tị Tránh né 他迅速躲避了危险。(Anh ấy nhanh chóng tránh được nguy hiểm.)
无情 wúqíng Tính từ Vô tình Vô tình, không tình cảm 他对别人的痛苦无情。(Anh ấy vô tình trước nỗi đau của người khác.)
伤感 shānggǎn Phó từ Thương cảm Thương cảm 听到这个故事,她感到伤感。(Nghe câu chuyện này, cô ấy cảm thấy thương cảm.)
毕竟 bìjìng Động từ Tất cảnh Xét đến cùng 毕竟他还是个孩子。(Xét cho cùng, cậu ấy vẫn là một đứa trẻ.)
经受 jīngshòu Động từ Kinh thụ Chịu đựng, bị 他经受了很多困难。(Anh ấy đã trải qua rất nhiều khó khăn.)

Ngữ pháp

1.  伤害 :Làm tổn thương, có hại (động từ).

Nghĩa: Làm tổn hại đến thân thể hoặc tư tưởng tình cảm.

Ví dụ:

(1) 喝酒太多伤害身体。
Hējiǔ tài duō shānghài shēntǐ.
Uống rượu quá nhiều có hại cho sức khỏe.

(2) 你这样做严重伤害了他的感情。
Nǐ zhèyàng zuò yánzhòng shānghài le tā de gǎnqíng.
Cậu làm như vậy đã tổn thương nghiêm trọng đến tình cảm của anh ấy.

2.  稍稍 : Chút ít, một chút (phó từ).

Biểu thị số lượng không nhiều hoặc mức độ không sâu. Cũng có thể nói “稍” hoặc “稍微”.

Ví dụ:

(1) 听了她的话,我的心情稍稍平静了一些。
Tīng le tā de huà, wǒ de xīnqíng shāoshāo píngjìng le yīxiē.
Nghe lời cô ấy nói, tâm trạng tôi bình tĩnh lại một chút.

(2) 我找到第三册书稍稍有点儿难。
Wǒ zhǎodào dì sān cè shū shāoshāo yǒu diǎnr nán.
Tôi tìm quyển thứ ba hơi khó một chút.

(3) 你稍稍等一下,他马上就过来。
Nǐ shāoshāo děng yīxià, tā mǎshàng jiù guòlái.
Bạn đợi một chút, anh ấy sẽ đến ngay.

3.  恰巧 : Vừa hay, vừa may (phó từ).

Biểu thị thời gian không sớm không muộn, cơ hội và điều kiện rất vừa vặn.

Ví dụ:

(1) 我们正在找王老师,恰巧他来了。
Wǒmen zhèngzài zhǎo Wáng lǎoshī, qiàqiǎo tā lái le.
Chúng tôi đang tìm thầy Vương, vừa hay thầy đến.

(2) 我刚到银行门口,他们俩恰巧从里边走出来。
Wǒ gāng dào yínháng ménkǒu, tāmen liǎ qiàqiǎo cóng lǐbiān zǒu chūlái.
Tôi vừa đến cổng ngân hàng, đúng lúc hai người họ đi ra từ bên trong.

(3) 路上恰巧碰到玛丽,就坐她的车回来了。
Lùshàng qiàqiǎo pèngdào Mǎlì, jiù zuò tā de chē huílái le.
Trên đường vừa hay gặp Mary, liền đi nhờ xe cô ấy về.

4. 一连 : Liên tục (phó từ).

“一连” biểu thị động tác liên tục không ngừng hoặc tình huống liên tục phát sinh. Làm trạng ngữ.

Ví dụ:

(1) 一连下了两天雨,到处都湿漉漉的。
Yīlián xià le liǎng tiān yǔ, dàochù dōu shīlùlù de.
Mưa liên tục hai ngày liền, khắp nơi đều ướt sũng.

(2) 这几天他一连加了几次班,累坏了。
Zhè jǐ tiān tā yīlián jiā le jǐ cì bān, lèi huài le.
Mấy ngày nay anh ấy liên tục tăng ca nhiều lần, mệt quá chừng.

5. Cấu trúc “不……不……” : Không…không…

Sau “不” dùng từ hoặc tố có ý nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau, biểu thị phủ định hoàn toàn.

Ví dụ:

  • Không sạch không bẩn
  • không vội không vàng
  • không biết không hay
  • không rõ không ràng.

“不声不响” nghĩa là lặng, không phát ra tiếng động, tiếng vang. Làm trạng ngữ.

Ví dụ:

(1) 她总是不声不响地帮助别人。
Tā zǒngshì bù shēng bù xiǎng de bāngzhù biérén.
Cô ấy luôn lặng lẽ giúp đỡ người khác.

(2) 我们不声不响地进去把书拿出来,不会打扰别人的。
Wǒmen bù shēng bù xiǎng de jìnqù bǎ shū ná chūlái, bù huì dǎrǎo biérén de.
Chúng tôi lặng lẽ vào lấy sách ra, sẽ không làm phiền người khác.

(3) 等她睡着以后,我就不声不响地出来了。
Děng tā shuìzháo yǐhòu, wǒ jiù bù shēng bù xiǎng de chūlái le.
Đợi cô ấy ngủ say rồi, tôi lặng lẽ ra ngoài.

6. 眼看 (phó từ).

Nghĩa: Rất nhanh, lập tức.

Ví dụ:

(1) 眼看就要黑了,快点儿走吧。
Yǎnkàn jiù yào hēi le, kuài diǎnr zǒu ba.
Trời sắp tối rồi, mau đi thôi.

(2) 现在已经六月了,这学期眼看就要结束了。
Xiànzài yǐjīng liù yuè le, zhè xuéqī yǎnkàn jiù yào jiéshù le.
Bây giờ đã là tháng sáu, học kỳ này sắp kết thúc rồi.

Nghĩa: Tùy ý, để mặc sự việc không như ý phát sinh hoặc phát triển)

Ví dụ:

(4) 你应该帮帮他,不能眼看着他往错误的道路上走。
Nǐ yīnggāi bāngbang tā, bù néng yǎnkànzhe tā wǎng cuòwù de dàolù shàng zǒu.
Cậu nên giúp anh ấy, không thể đứng nhìn anh ấy đi vào con đường sai lầm.

(5) 我们不能眼看着水这么白白流掉。
Wǒmen bù néng yǎnkànzhe shuǐ zhème báibái liú diào.
Chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn nước cứ thế chảy đi lãng phí.

7.  毕竟 : Xét đến cùng (phó từ).

“毕竟” biểu thị căn cứ vào tình hình thực tế, truy tìm tận gốc rễ và rút ra kết luận. Làm trạng ngữ.

Ví dụ:

(1) 我们对中国的情况毕竟知 道得太少,应当多走走,多看看。
Wǒmen duì Zhōngguó de qíngkuàng bìjìng zhīdào de tài shǎo, yīngdāng duō zǒuzǒu, duō kànkàn.
Dù sao chúng ta cũng biết quá ít về tình hình Trung Quốc, nên đi nhiều, xem nhiều hơn.

(2) 你学汉语的时间毕竟还太短,现在还不可能听懂长篇小说。
Nǐ xué Hànyǔ de shíjiān bìjìng hái tài duǎn, xiànzài hái bù kěnéng tīngdǒng chángpiān xiǎoshuō.
Dù sao thời gian học tiếng Trung của bạn vẫn còn quá ngắn, bây giờ chưa thể nghe hiểu được tiểu thuyết dài.

(3) 虽然学习有很大困难,但是毕竟已经学了一年了,半途而废太可惜。
Suīrán xuéxí yǒu hěn dà kùnnán, dànshì bìjìng yǐjīng xué le yī nián le, bàntú ér fèi tài kěxī.
Mặc dù việc học gặp nhiều khó khăn, nhưng dù sao cũng đã học được một năm rồi, bỏ dở giữa chừng thì quá đáng tiếc.

8.  共同 (副, 形) : Cùng, chung (phó từ).

Khi là phó từ, “共同” có nghĩa mọi người cùng làm một việc nào đó. Làm trạng ngữ.

Ví dụ:

(1) 我们两国决定共同开发这里的水利资源。
Wǒmen liǎng guó juédìng gòngtóng kāifā zhèlǐ de shuǐlì zīyuán.
Hai nước chúng ta quyết định cùng nhau khai thác tài nguyên thủy lợi ở đây.

(2) 让我们共同努力把这项工作搞好。
Ràng wǒmen gòngtóng nǔlì bǎ zhè xiàng gōngzuò gǎo hǎo.
Hãy cùng nhau nỗ lực hoàn thành tốt công việc này.

Khi làm hình dung từ, nó có nghĩa là của chung mọi người, ai cũng có.

Ví dụ:

(3) 学好汉语,了解中国是我们共同的愿望。
Xué hǎo Hànyǔ, liǎojiě Zhōngguó shì wǒmen gòngtóng de yuànwàng.
Học tốt tiếng Trung, hiểu biết về Trung Quốc là nguyện vọng chung của chúng ta.

(4) 发展经济,提高人民生活水平,实现世界和平是我们的共同理想。
Fāzhǎn jīngjì, tígāo rénmín shēnghuó shuǐpíng, shíxiàn shìjiè hépíng shì wǒmen de gòngtóng lǐxiǎng.
Phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, thực hiện hòa bình thế giới là lý tưởng chung của chúng ta.

Bài khóa

人虎情

Chữ Hán

在东北的日子里,我们一家三口住在离农场很远的山上。五岁的女儿珊珊 太寂寞,想养只小猫小狗什么的。可是在这种地方,到哪里去找啊!

初夏的一天,我下班刚到家。女儿跑进门高兴地对我说:“妈妈,快去看我 的狗!”她不容分说地拉上我就往外走。随女儿来到一棵松树旁,她指给我看。 啊!我不禁双腿发颤,什么狗?原来是一只大老虎!老虎眼睛闭着,头有牛头 那么大,嘴边的胡子有三寸长。女儿竟然让老虎把头放在自己的肩上,还用小 手梳着虎背上的毛,说:“我给它喝过好几次水了,它又渴又饿。”老虎慢慢睁开 眼,嘴里发出“呜呜”的声音。“妈妈,它是不是病了?你给它看看吧。”老虎好像 听懂了女儿的话,闭上眼睛等待着。我看老虎没有伤人的意思,心才稍稍安定 下来。尽管如此,我仍不敢大意:“珊珊,快过来,让妈妈给它看病。”女儿在老虎 鼻子上吻了一下说:“听话,妈妈要给你看病了。”女儿来到我身边,老虎把头低 下去。谢天谢地,老虎有病了,否则……我赶紧拉上女儿回家。恰巧丈夫玉刚 下班回来,我把刚才的事告诉他。他拿上猎枪和我出了门,来到松树旁。我指 给他看,丈夫端起枪说:“我来打死它。”就在他要开枪的时刻,女儿突然跑过去搂住老虎的脖子说:“妈妈,你不是给我的狗看病吗?”老虎对女儿信任和友好的 态度,使丈夫放下了枪。于是我给老虎打了一针,等老虎平静地入睡了,我和丈 夫把它从地上拖起来。好大一只虎哇!原来它屁股受了伤。。。

一连几天我都给它打针、换药。

两个月后,老虎的伤好了,我们一家也和它有了感情。玉刚经常打野兔喂 它,我们叫它“灰灰”,它成了珊珊最好的伙伴儿和保护者。白天它和女儿上山 玩,晚上不声不响地去休息。开始,工人们看到老虎都很害怕,但见个小女孩在 老虎身边又非常惊奇,日子一久也习以为常了,还来我家看老虎。灰灰有时围 着珊珊又蹦又跳,有时让珊珊骑在它背上跑圈儿,逗得珊珊发笑。如果珊珊不 跟它玩,它就闭上眼睛卧着,以示对人是安全的。

秋天到了,有一天灰灰晚上进了森林,早晨再没回来。女儿哭起来:“我想 它,没有灰灰,我不敢出门玩!”

第二年春天的一个早晨,女儿从外边跑进屋来喊道:“妈妈,灰灰回来了,你 快去看呀!”我急忙随女儿来到松树下,灰灰平静地躺在那儿一动不动。我过去 一摸,它已经死了。然而,它的身旁有只猫大的小虎还在吃奶。我把小虎抱在 怀中,小虎一双水汪汪的眼睛,小牙白白的,好可爱啊!我把小虎交给女儿,叫 来丈夫,把灰灰埋了。

我们把小虎抱回家,放在床上。小虎比它妈妈还好看。我们叫它“花花”。 经过精心喂养,三个月后,花花长得像小狗那么大了,很健壮。我们都喜欢同它 逗,它玩得可开心了。玩累了就卧在你身边,用舌头舔你的手。
九月一日,是珊珊入学的日子。玉刚要送女儿去学校,花花一直跟着。父 女俩叫它回家,可它怎么也不离开,非跟着珊珊走不可。我只好抱住它,等他们 父女俩走远了才放开它。可是它生气了,躺在路边不回家。直到下午珊珊放学 回来,它一看见珊珊就飞快地跑上去迎接,跟在珊珊身边边跑边跳。从此,迎接 珊珊成了它的工作。

花花长得很快,两年就长成了一只半大虎。

冬天的一天,玉刚带女儿和花花去山上玩。正在他们玩得高兴的时候,不 知从什么地方跑出来了一只大黑熊。玉刚很着急,眼看大黑熊向珊珊奔跑过 去。就在这时,花花从远处飞跑过来,勇敢地扑向大黑熊。为了保护小主人,小 虎拼命向黑熊进攻。它跳到黑熊背上,咬住黑熊的一只耳朵,大黑熊疼得直叫, 赶快跑了,花花把它追了老远老远。

后来,我们要调回北京了。一家人首先考虑的是:花花怎么办?商量的結 果是把它送给杂技团。我给杂技团去了一封信,三天后他们来了一辆汽车把花 花拉走了。我松了口气,然而又有一种失落感。没想到七天后,杂技团又把花 花送回来了。来人说:“从到杂技团以后,这只老虎一直流泪,把牛肉放到它的嘴边上都不吃。没办法,还是给你家送回来吧。”

花花见到我们时已经站不起来了,只是摇动摇动尾巴表示高兴。我赶紧喂 了它一碗牛奶,它才慢慢站起来摇摇晃晃地跟着我们回家。这一夜它就和我睡 在一起,就像它小时候和珊珊睡在一起一样。这回我们决定让它回到大森林里 去过自由自在的生活,玉刚开始训练它独立生活的能力,当它饥饿时放一只鸡
让它去追。

做好了回京的一切准备后,我们把花花送进大森林。就在它去追一只野兔
时,我们悄悄离开了。

回北京的那天夜里,下着大雨。我坐在火车上,不由产生了一种思绪,望着 窗外,想起小虎,它独自留在大森林里,到哪儿去躲避这无情的风雨呢?想到它 和我们一家人在一起的快乐日子,想到它保护女儿的勇敢,我不禁流下了伤感 的眼泪。然而,它毕竟要经受大自然的风雨。当它偶然回到我们共同住过的小 屋时,是否也会和我们一样产生思念之情呢……………

(根据杨正棠文章改写)

Pinyin

Zài Dōngběi de rìzi lǐ, wǒmen yījiā sānkǒu zhù zài lí nóngchǎng hěn yuǎn de shānshàng. Wǔ suì de nǚ’ér Shānshān tài jìmò, xiǎng yǎng zhī xiǎo māo xiǎo gǒu shénme de. Kěshì zài zhè zhǒng dìfāng, dào nǎlǐ qù zhǎo a!

Chūxià de yītiān, wǒ xiàbān gāng dào jiā. Nǚ’ér pǎo jìn mén gāoxìng de duì wǒ shuō:
“Māmā, kuài qù kàn wǒ de gǒu!” Tā bù róng fēn shuō de lā shàng wǒ jiù wǎng wài zǒu. Suí nǚ’ér lái dào yī kē sōngshù páng, tā zhǐ gěi wǒ kàn: A! Wǒ bù jìn zhēng zhēng shuāng yǎn, shénme gǒu? Yuánlái shì yī zhī dà lǎohǔ! Lǎohǔ yǎnjīng bìzhe, tóu yǒu niútóu nàme dà, zuǐ biān de húxū yǒu èr sān cùn cháng. Nǚ’ér jìngrán ràng lǎohǔ bǎ tóu fàng zài zìjǐ de jiān shàng, hái yòng xiǎo shǒu shūzhe hǔ bèi shàng de máo, shuō: “Gěi tā hēguò hǎo jǐ cì shuǐ le, tā yǐ wēn yòu è.” Lǎohǔ mànmàn zhēngkāi yǎn, zuǐ lǐ fāchū “wū wū” de shēngyīn. “Māmā, tā shì bù shì bìng le? Nǐ gěi tā kànkan ba.”

Lǎohǔ hǎoxiàng tīng dǒng le nǚ’ér de huà, bì shàng yǎnjīng děngdài zhe. Wǒ kàn lǎohǔ méiyǒu shāng rén de yìsi, xīn cái shāo shāo āndìng xiàlái. Jǐnguǎn rúcǐ, wǒ réng bù gǎn dàyì: “Shānshān, kuài guòlái, ràng māmā gěi tā kàn bìng.” Nǚ’ér zài lǎohǔ bízi shàng wěn le yīxià, shuō: “Tīnghuà, māmā yào gěi nǐ kàn bìng le.” Nǚ’ér láidào wǒ shēnbiān, lǎohǔ bǎ tóu dī xiàqù. Xiètiān xièdì, lǎohǔ yǒu bìng le, fǒuzé……
Wǒ gǎn jǐn lā shàng nǚ’ér huí jiā.

Qiàqiǎo zhàngfū Yùgāng xiàbān huílái, wǒ bǎ gāngcái de shì gàosu tā. Tā ná shàng lièqiāng hé wǒ chūle mén, láidào sōngshù páng. Wǒ zhǐ gěi tā kàn, zhàngfū duān qǐ qiāng shuō: “Wǒ lái dǎsǐ tā.” Jiù zài tā yào kāi qiāng de shíkè, nǚ’ér túrán pǎo guòqù lǒuzhù lǎohǔ de bózi, shuō: “Māmā, nǐ bú shì gěi wǒ de gǒu kàn bìng ma?”

Lǎohǔ duì nǚ’ér xìnrèn hé yǒuhǎo de tàidù, shǐ zhàngfū fàngxià le qiāng. Yúshì wǒ gěi lǎohǔ dǎ le yī zhēn, děng lǎohǔ píngjìng de rùshuì le, wǒ hé zhàngfū bǎ tā cóng dìshàng tuō qǐlái. Hǎo dà yī zhī hǔ wa! Yuánlái tā pìgu shòule shāng……

Yī lián jǐ tiān wǒ dōu gěi tā dǎzhēn, huàn yào. Liǎng gè yuè hòu, lǎohǔ de shāng hǎo le, wǒmen yījiā yě hé tā yǒu le gǎnqíng.Yùgāng jīngcháng dǎ yětù wèi tā,wǒmen jiào tā “Huīhuī”,tā chéngle Shānshān zuì hǎo de huǒbàn hé bǎohù zhě.Báitiān tā hé nǚ’ér shàng shān wán,wǎnshàng bù shēng bù xiǎng de qù xiūxí.

Kāishǐ, gōngrénmen kàndào lǎohǔ dōu hěn hàipà,dàn jiànguò yī gè xiǎo nǚhái zài lǎohǔ shēnbiān,yòu fēicháng jīngqí,rìzi yī jiǔ yě xí yǐ wéi cháng le,hái lái wǒ jiā kàn lǎohǔ.

Huīhuī yǒushí wéizhe Shānshān yòu bèng yòu tiào,yǒushí ràng Shānshān qízài tā bèi shàng pǎo quān er,dòu de Shānshān fāxiào.Rúguǒ Shānshān bù gēn tā wán,tā jiù bì shàng yǎnjīng wòzhe,yǐ shì duì rén shì ānquán de.

Qiūtiān dào le,yǒu yītiān Huīhuī wǎnshàng jìn le sēnlín,zǎochén zài méi huílái.Nǚ’ér kū qǐlái:“Wǒ xiǎng tā, méiyǒu Huīhuī,wǒ bù gǎn chūmén wán!”

Dì’èr nián chūntiān de yī gè zǎochén,nǚ’ér cóng wàibiān pǎo jìn wū lái hǎndào:“Māmā, Huīhuī huílái le,nǐ kuài qù kàn ya!”

Wǒ jímáng suí nǚ’ér láidào sōngshù xià,Huīhuī píngjìng de tǎng zài nà’er yīdòng bù dòng.Wǒ guòqù yī mō,tā yǐjīng sǐ le.Ránhòu, tā de shēn páng yǒu zhī māo dà de xiǎo hǔ hái zài chī nǎi.Wǒ bǎ xiǎo hǔ bào zài huái zhōng,xiǎo hǔ yī shuāng shuǐ wāngwāng de yǎnjīng,xiǎo yá báibái de, hǎo kě’ài a!Wǒ bǎ xiǎo hǔ jiāo gěi nǚ’ér,jiào lái zhàngfū,bǎ Huīhuī mái le.

Wǒmen bǎ xiǎo hǔ bào huí jiā,fàng zài chuáng shàng.Xiǎo hǔ bǐ tā māmā hái hǎokàn.Wǒmen jiào tā “Huāhuā” (花花).

Jīngguò jīngxīn wèiyǎng,sān gè yuè hòu,Huāhuā zhǎng de xiàng xiǎo gǒu nàme dà le,hěn jiànzhuàng.Wǒmen dōu xǐhuan tóng tā dòu,tā wán de kě kāixīn le.Wán lèi le jiù wò zài nǐ shēnbiān,yòng shétou tiǎn nǐ de shǒu.

Jiǔyuè yī rì,shì Shānshān rùxué de rìzi.Yùgāng yào sòng nǚ’ér qù xuéxiào,Huāhuā yīzhí gēnzhe.Fù nǚ liǎ jiào tā huí jiā,kě tā zěnme yě bù líkāi,fēi gēnzhe Shānshān zǒu bùkě.Wǒ zhǐhǎo bào zhù tā,děng tāmen fù nǚ liǎ zǒu yuǎn le cái fàng kāi tā.

Kěshì tā shēngqì le,tǎng zài lùbiān bù huí jiā.Zhídào xiàwǔ Shānshān fàngxué huílái,
tā yī kànjiàn Shānshān jiù fēikuài de pǎo shàng qù yíngjiē,gēn zài Shānshānshēnbiān, biān pǎo biān tiào.Cóngcǐ, yíngjiē Shānshān chéngle tā de gōngzuò.

Huāhuā zhǎng de hěn kuài,liǎng nián jiù zhǎng chéng le yī zhī bàn dà hǔ.

Dōngtiān de yī tiān,Yùgāng dài nǚ’ér hé Huāhuā qù shān shàng wán.Zhèngzài tāmen wán de gāoxìng de shíhou,bù zhī cóng shénme dìfāng pǎo chū le yī zhī dà hēixióng.Yùgāng hěn zhāojí,yǎnkàn dà hēixióng xiàng Shānshān bēnpǎo guòqù.

Jiù zài zhè shí,Huāhuā cóng yuǎnchù fēipǎo guòlái,yǒnggǎn de pū xiàng dà hēixióng.Wèile bǎohù xiǎo zhǔrén,xiǎo hǔ pīnmìng xiàng hēixióng jìngōng.Tā tiào dào hēixióng bèi shàng,yǎo zhù hēixióng de yī zhī ěrduǒ,dà hēixióng téng de zhí jiào,gǎnkuài pǎo le, Huāhuā bǎ tā zhuī le lǎo yuǎn lǎo yuǎn.

Hòulái, wǒmen yào diàohuí Běijīng le.Yījiārén shǒuxiān kǎolǜ de shì: Huāhuā zěnme bàn?Shāngliáng de jiéguǒ shì bǎ tā sòng gěi zájìtuán.

Wǒ gěi zájìtuán qù le yī fēng xìn,sān tiān hòu tāmen lái le yī liàng qìchēbǎ Huāhuā lā zǒu le.Wǒ sōng le kǒuqì,rán’ér yòu yǒu yī zhǒng shīluò gǎn.

Méi xiǎngdào qī tiān hòu,zájìtuán yòu bǎ Huāhuā sòng huílái le.Láirén shuō:“Cóng dào zájìtuán yǐhòu,zhè zhī lǎohǔ yīzhí liúlèi,bǎ niúròu fàng dào tā de zuǐbiān dōu bù chī.Méi bànfǎ,háishì gěi nǐ jiā sòng huílái ba.”

Huāhuā jiàndào wǒmen shí yǐjīng zhàn bù qǐlái le,zhǐshì yáodòng yáodòng wěiba biǎoshì gāoxìng.Wǒ gǎnkuài wèi le tā yī wǎn niúnǎi,tā cái mànmàn zhàn qǐlái,
yáoyáo huànghuàng de gēnzhe wǒmen huí jiā.Zhè yī yè tā jiù hé wǒ shuì zài yīqǐ,
jiù xiàng tā xiǎoshíhòu hé Shānshān shuì zài yīqǐ yīyàng.

Zhè huí wǒmen juédìngràng tā huí dào dà sēnlín lǐ qù guò zìyóu zìzài de shēnghuó.
Yùgāng kāishǐ xùnliàn tā dúlì shēngcún de nénglì,dāng tā jī’è shí fàng yī zhī jī
ràng tā qù zhuī.

Zuò hǎo le huí Jīng de yīqiè zhǔnbèi hòu,wǒmen bǎ Huāhuā sòng jìn dà sēnlín.
Jiù zài tā qù zhuī yī zhī yètù shí,wǒmen qiāoqiāo líkāi le.

Huí Běijīng de nà tiān yèlǐ, xiàzhe dàyǔ. Wǒ zuò zài huǒchē shàng, bùyóu chǎnshēng le yī zhǒng sīlǜ, wàngzhe chuāngwài, xiǎngqǐ xiǎo hǔ, tā dúzì liú zài dà sēnlín lǐ, dào nǎ’er qù duǒbì zhè wúqíng de fēngyǔ ne? Xiǎngdào tā hé wǒmen yījiā rén zài yīqǐ de kuàilè rìzi, xiǎngdào tā bǎohù nǚ’ér de yǒnggǎn, wǒ bùjīn liú xià le shānggǎn de yǎnlèi.

Rán’ér, tā bìjìng yào jīngshòu dà zìrán de fēng yǔ. Dāng tā ǒurán huí dào wǒmen gòngtóng zhùguò de xiǎo wū shí, shìfǒu yě huì hé wǒmen yīyàng chǎnshēng sīniàn zhī qíng ne?

Tiếng Việt

Trong những ngày ở Đông Bắc, gia đình ba người của chúng tôi sống trên một ngọn núi xa nông trường. Cô con gái năm tuổi của tôi, San San, cảm thấy rất cô đơn và muốn nuôi một con mèo hoặc chó con. Nhưng ở nơi này, làm sao có thể tìm thấy được chứ?

Vào một ngày đầu mùa hè, tôi vừa đi làm về đến nhà. Con gái chạy vào cửa vui vẻ nói với tôi: “Mẹ ơi, mau ra xem con chó của con!” Không chờ tôi trả lời, con bé đã kéo tay tôi ra ngoài. Đi theo con gái đến bên một cây thông, nó chỉ cho tôi xem: A! Tôi không khỏi trợn tròn mắt, con chó gì cơ? Hóa ra đó là một con hổ lớn! Con hổ nhắm mắt, đầu to bằng đầu con bò, râu quanh miệng dài chừng hai đến ba tấc. Con gái tôi thậm chí còn để con hổ tựa đầu lên vai mình, dùng đôi tay nhỏ xíu chải bộ lông trên lưng nó, và nói: “Con đã cho nó uống nước mấy lần rồi, nó vừa lạnh vừa đói.” Con hổ từ từ mở mắt, trong miệng phát ra âm thanh “wū wū”. “Mẹ ơi, có phải nó bị bệnh không? Mẹ hãy xem giúp nó đi.”

Con hổ dường như hiểu được lời con bé nói, nhắm mắt chờ đợi. Thấy con hổ không có ý định làm hại người, tôi mới dần dần yên tâm hơn. Dù vậy, tôi vẫn không dám chủ quan: “San San, mau lại đây, để mẹ xem bệnh cho nó.” Con gái hôn nhẹ lên mũi con hổ, rồi nói: “Nghe lời nhé, mẹ sẽ chữa bệnh cho con.” Con gái đi về phía tôi, con hổ liền cúi đầu xuống. Tạ ơn trời đất, con hổ thực sự bị bệnh, nếu không thì… Tôi vội vàng kéo con gái về nhà.

Vừa hay chồng tôi, Dư Cương, đi làm về, tôi kể cho anh ấy nghe chuyện vừa rồi. Anh lấy súng săn và cùng tôi ra ngoài, đến bên cây thông. Tôi chỉ cho anh ấy xem, chồng tôi liền giương súng lên và nói: “Để anh bắn chết nó.” Ngay khoảnh khắc anh chuẩn bị bóp cò, con gái đột nhiên chạy tới ôm chặt cổ con hổ và nói: “Mẹ ơi, chẳng phải mẹ đang chữa bệnh cho con chó của con sao?”

Thái độ tin tưởng và thân thiện của con hổ đối với con gái khiến chồng tôi hạ súng xuống. Thế là tôi tiêm cho con hổ một mũi, đợi đến khi nó ngủ yên, chồng tôi và tôi cùng nhau kéo nó lên khỏi mặt đất. Thật là một con hổ to lớn! Hóa ra chân nó đã bị thương…

Trong nhiều ngày liên tiếp, tôi đều tiêm thuốc và thay băng cho nó. Hai tháng sau, vết thương của con hổ đã lành, gia đình chúng tôi cũng dần có tình cảm với nó. Dư Cương thường xuyên săn thỏ rừng để cho nó ăn, chúng tôi đặt tên nó là “Hui Hui” (Xám Xám), nó trở thành người bạn thân thiết nhất và người bảo vệ của San San. Ban ngày, nó cùng con gái tôi lên núi chơi, buổi tối, nó lặng lẽ đi nghỉ.

Ban đầu, công nhân trong trang trại đều rất sợ khi nhìn thấy con hổ, nhưng sau khi thấy một bé gái nhỏ nhắn vui vẻ chơi đùa bên con hổ, họ vô cùng ngạc nhiên. Thời gian trôi qua, mọi người dần quen với sự hiện diện của nó và thậm chí còn đến nhà chúng tôi để xem con hổ.

Hui Hui đôi khi nhảy quanh San San, có lúc lại để con bé cưỡi trên lưng và chạy vòng vòng, khiến con bé cười vui vẻ. Nếu San San không chơi với nó, nó liền nhắm mắt nằm xuống, như để nói rằng nó không gây nguy hiểm cho ai cả.

Mùa thu đến, một ngày nọ, Hui Hui vào rừng vào ban đêm và không trở về vào sáng hôm sau. Con gái tôi khóc nức nở:
“Con nhớ nó, không có Hui Hui, con không dám ra ngoài chơi nữa!”

Một buổi sáng mùa xuân năm sau, San San từ bên ngoài chạy vào nhà và hét lên: “Mẹ ơi, Hui Hui đã trở về, mẹ mau ra xem đi!”

Tôi vội vàng theo con gái ra chỗ cây thông, thấy Hui Hui nằm yên bất động. Tôi bước tới sờ vào nó, nó đã chết rồi. Bên cạnh nó là một con hổ con to bằng con mèo con, đang bú sữa. Tôi bế con hổ con vào lòng, đôi mắt nó tròn xoe lấp lánh như nước, hàm răng nhỏ trắng tinh, trông rất đáng yêu! Tôi đưa hổ con cho con gái mình,
gọi chồng đến, cùng nhau chôn cất Hui Hui.

Chúng tôi đưa hổ con về nhà,đặt lên giường.Hổ con trông còn đẹp hơn mẹ nó.Chúng tôi đặt tên nó là “Hua Hua” (Hoa Hoa).

Sau ba tháng chăm sóc chu đáo,Hua Hua đã lớn bằng một con chó,rất khỏe mạnh.Cả nhà ai cũng thích chơi với nó,nó cũng rất vui vẻ.Khi mệt, nó lại nằm xuống bên cạnh,dùng lưỡi liếm tay bạn.

Ngày 1 tháng 9,là ngày San San nhập học.Dư Cương định đưa con gái đến trường,
Hua Hua cứ đi theo mãi.Hai cha con bảo nó quay về nhà,nhưng nó không chịu,khăng khăng muốn đi cùng San San.Tôi đành phải ôm nó lại,đợi hai cha con đi xa mới thả nó ra.

Nhưng nó giận dỗi,nằm lì bên đường không chịu về nhà.Cho đến chiều, khi San San đi học về,vừa thấy con bé,nó lập tức chạy nhanh đến chào đón,chạy nhảy vui mừng bên cạnh.Từ đó, đón San San đi học vềtrở thành công việc hàng ngày của nó.

Hua Hua lớn rất nhanh,mới hai năm đã thành một con hổ trưởng thành.

Một ngày mùa đông,Dư Cương đưa con gái và Hua Hua lên núi chơi.Đang lúc họ vui vẻ nô đùa,không biết từ đâu lao ra một con gấu đen khổng lồ.Dư Cương hốt hoảng,
nhìn thấy con gấu đang lao về phía San San.

Ngay lúc đó,Hua Hua từ xa lao tới,dũng cảm xông vào con gấu đen.Để bảo vệ chủ nhân nhỏ bé,nó liều mạng tấn công con gấu.Nó nhảy lên lưng con gấu,cắn chặt lấy tai nó,con gấu đau đớn gầm lên,vội vàng bỏ chạy,Hua Hua đuổi theo nó rất xa.

Sau đó, chúng tôi nhận được lệnh điều về Bắc Kinh.Cả gia đình băn khoăn nhất về vấn đề: Hoa Hoa phải làm sao đây? Sau khi bàn bạc, chúng tôi quyết định gửi nó đến đoàn xiếc.

Tôi gửi một bức thư đến đoàn xiếc,ba ngày sau, họ lái xe đến để đưa Hoa Hoa đi.
Tôi thở phào nhẹ nhõm,nhưng trong lòng lại trống trải khó tả.

Không ngờ, bảy ngày sau,đoàn xiếc lại đem Hoa Hoa trả về.Người đưa tin nói:“Kể từ khi đến đoàn xiếc,con hổ này luôn khóc,ngay cả thịt bò đặt trước miệng nó cũng không ăn.Không còn cách nào khác, đành mang nó trả về nhà anh chị.”

Khi gặp lại chúng tôi,Hoa Hoa đã kiệt sức đến mức không đứng nổi,chỉ đuôi khẽ vẫy nhẹ để thể hiện niềm vui.Tôi vội vã pha cho nó một bát sữa,nó mới chậm rãi đứng dậy,lảo đảo bước theo chúng tôi về nhà.Đêm đó, nó nằm ngủ bên tôi,giống như ngày xưa từng ngủ cùng San San vậy.

Lần này, chúng tôi quyết địnhđể nó trở về rừng, sống một cuộc sống tự do.Dư Cương bắt đầu huấn luyện nó kỹ năng sinh tồn độc lập,mỗi khi nó đói, anh ấy thả một con gàđể nó đuổi bắt.

Sau khi chuẩn bị mọi thứ để về Bắc Kinh,chúng tôi đưa Hoa Hoa vào rừng sâu.Đúng lúc nó lao đi săn một con thỏ rừng,chúng tôi lặng lẽ rời đi.

Đêm hôm đó, trên đường về Bắc Kinh, trời đổ mưa lớn. Tôi ngồi trên tàu hỏa, không khỏi bâng khuâng suy nghĩ, nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi nhớ đến Hoa Hoa. Nó giờ đây một mình giữa rừng sâu, không biết phải tìm nơi nào để tránh cơn mưa gió lạnh lùng này? Nhớ lại những ngày tháng hạnh phúc nó đã trải qua bên gia đình chúng tôi, nhớ lại những lần nó dũng cảm bảo vệ con gái tôi, nước mắt tôi rơi xuống trong niềm xúc động.

Nhưng, dù sao đi nữa, nó cũng phải học cách thích nghi với thiên nhiên. Liệu có một ngày nào đó, khi tình cờ quay lại căn nhà nhỏ nơi chúng tôi từng sống cùng nhau, nó có cảm thấy nhớ chúng tôi, giống như cách chúng tôi nhớ nó không…?

→Tình yêu giữa người và hổ không chỉ là một câu chuyện cảm động về tình bạn giữa con người và động vật mà còn là một bài học sâu sắc về sự gắn kết và tôn trọng thế giới tự nhiên. Tình cảm chân thành mà gia đình dành cho Huy Huy và Hoa Hoa đã khiến những con hổ vốn hoang dã trở thành những người bạn trung thành.

Tuy nhiên, thiên nhiên vẫn là mái nhà thực sự của chúng, và con người cũng cần học cách để muông thú trở về với cuộc sống tự do. Câu chuyện khép lại với sự tiếc nuối, nhưng đồng thời cũng để lại trong lòng người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu thương và trách nhiệm đối với thiên nhiên.

→Xem tiếp Bài 99: Giáo trình Hán ngữ Quyển 6 Phiên bản cũ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button