Bài 80: Giáo trình Hán ngữ Quyển 5 – Bốc thăm. [Phiên bản cũ ]

Trong cuộc sống, có những khoảnh khắc con người phải đối mặt với ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Chính trong những lúc ấy, tình người, lòng dũng cảm và sự hy sinh cao cả mới được thể hiện một cách trọn vẹn nhất. Trong bài 80 của giáo trình Hán ngữ quyển 5 trong bộ giáo trình Hán ngữ, hai câu chuyện đầy xúc động đã khắc họa sâu sắc điều đó.

Một câu chuyện về tình đồng đội khi những người đàn ông trên con tàu Hoàng Hà đấu tranh để giành lấy cơ hội sống cho nhau, và một câu chuyện khác về tình phụ tử thiêng liêng khi một người cha không màng nguy hiểm, kiên trì cứu con trai mình khỏi đống đổ nát sau trận động đất. Dù trong hoàn cảnh nào, lòng hy sinh và niềm tin vẫn là ngọn lửa thắp sáng hy vọng, truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta về giá trị của sự sống và tình yêu thương.

←Xem lại Bài 79: Giáo trình Hán ngữ Quyển 5 Phiên bản cũ

Bài đọc

Bài đọc 1

抓阄儿

我 大学毕业 刚 参加 工作,就 经历 了 一次 生和死 的 考验。

那年 秋天,我 去 黄河 口 参加 社会 实践,被 分配到 一 只 船上 看 机器。这天 白天,黄河水 猛涨,到 了 晚上,河水 仍然 不见 下去,洪水 把 我们 的 船冲 得 直 摇晃。

突然,听见“啪,啪”几声,三根 缆绳 接连 被 拉断。霎时间,我们 的 船 像 一匹 野马,迅速 向 下游 漂去。

这里 离 大海 不到 60 公里,两岸 没有 人烟,周围 除了 风声 和 黄河 的 涛声,听不到 别的 声音。我们 好像 意识到 了 什么。

一个 小时 过去 了,又 一个 小时 过去 了,已经 闻到 大海 的 气息 了,我们 还是 想不出 办法 来,于是 大伙儿 一 商量,决定 跳河,游到 岸边 去。可是,我们 四个人 只 有 一件 救生衣,给 谁 谁 都 不 穿。

主机手 刘水生 说,他 从小 长在 黄河边,游泳 游 得 好,救生衣 应该 给 不会 水 的 同志 穿。

副机手 王伟东 说,他 是 老大哥,老大哥 就 得 有 个 老大哥 的 样子,当然 不能 穿。其实,那年 他 才 22 岁。

大李 则 找了 个 不太 好意思 讲 出口 的 理由,他 说 他 没有 念过书,救生衣 还是 留给 大学生 吧。咱们 国家 培养 一个 大学生 不 容易 呀。

听了 他们 的 话,我 心 里 一阵 热,眼泪 差点儿 流出来。可 我 一时 又 找 不出 拒绝 的 理由。但是,无论 大伙儿 怎么 劝 我,我 还是 不肯 穿 那件 救生衣。

我 建议 说:“咱们 抓阄儿 吧,谁 抓住 谁 穿。”

他们 三个人 互相 看了 一眼,点了点头。王伟东 抢先 做好 了 阄儿:“三个‘不’,一个‘穿’,谁 抓住‘穿’谁 就 穿。”他 自己 先 抓了 一个,打开 一看 是“不”,接着 水生 和 大李 两人 都 抓 的 是“不”,还没 等 我 去 抓,伟东 已 把 那 阄儿 扔进 了 河里。大家 不容 我 多说,就 把 那件 救生衣 牢牢 地 套在 我 的 身上。。。

结果,伟东 没有 爬上 岸。

后来 我 才 知道,那四个 阄儿 都 是“不”,是 伟东 他们 故意 那样 做 的,伟东 还 对 他们 说,他们 三个 一定 先 抓,非 让 我 穿上 那件 救生衣 不可。。。

我 跪在 伟东 墓 前 痛苦 不止。从此,我 懂得 了 人世间 什么 叫“情义”。

Zhuājiūr

Wǒ dàxué bìyè gāng cānjiā gōngzuò, jiù jīnglìle yīcì shēng hé sǐ de kǎoyàn.

Nà nián qiūtiān, wǒ qù huánghé kǒu cānjiā shèhuì shíjiàn, bèi fēnpèi dào yī zhī chuánshàng kàn jīqì. Zhè tiān báitiān, huánghéshuǐ měng zhǎng, dàole wǎnshàng, hé shuǐ réngrán bùjiàn xiàqù, hóngshuǐ bǎ wǒmen de chuán chōng de zhí yáohuàng.

Tūrán, tīngjiàn “pā, pā” jǐ shēng, sāngēn lǎnshéng jiēlián bèi lā duàn. Shàshíjiān, wǒmen de chuán xiàng yī pǐ yěmǎ, xùnsù xiàng xiàyóu piào qù.

Zhèlǐ lí dàhǎi bù dào 60 gōnglǐ, liǎng àn méiyǒu rényān, zhōuwéi chúle fēngshēng hé huánghé de tāoshēng, tīng bù dào bié de shēngyīn. Wǒmen hǎoxiàng yìshí dàole shénme.

Yīgè xiǎoshí guòqùle, yòu yīgè xiǎoshí guòqùle, yǐjīng wén dào dàhǎi de qìxī le, wǒmen háishì xiǎng bù chū bànfǎ lái, yúshì dàhuǒr yī shāngliàng, juédìng tiàohé, yóu dào àn biān qù. Kěshì, wǒmen sì gèrén zhǐyǒu yī jiàn jiùshēngyī, gěi shúi shúi dōu bù chuān.

Zhǔ jīshǒu Liú Shuǐshēng shuō, tā cóngxiǎo cháng zài huánghé biān, yóuyǒng yóu de hǎo, jiùshēngyī yīnggāi gěi bù huì shuǐ de tóngzhì chuān.

Fù jīshǒu Wáng Wěidōng shuō, tā shì lǎo dàgē, lǎo dàgē jiù děi yǒu gè lǎo dàgē de yàngzi, dāngrán bùnéng chuān. Qíshí, nà nián tā cái 22 suì.

Dà Lǐ zé zhǎole gè bù tài hǎoyìsi jiǎng chūkǒu de lǐyóu, tā shuō tā méiyǒu niànguò shū, jiùshēngyī háishì liú gěi dàxuéshēng ba. Zánmen guójiā péiyǎng yīgè dàxuéshēng bù róngyì ya.

Tīngle tāmen dehuà, wǒ xīnlǐ yī zhèn rè, yǎnlèi chàdiǎnr liú chūlái. Kě wǒ yīshí yòu zhǎo bù chū jùjué de lǐyóu. Dànshì, wúlùn dàhuǒr zěnme quàn wǒ, wǒ háishì bù kěn chuān nà jiàn jiùshēngyī.

Wǒ jiànyì shuō:“Zánmen zhuājiūr ba, shuí zhuā zhù shuí chuān.”

Tāmen sān gèrén hùxiāng kànle yīyǎn, diǎnle diǎntóu. Wáng Wěidōng qiǎngxiān zuò hǎole jiūr:“Sān gè ‘bù’, yīgè ‘chuān’, shuí zhuā zhù ‘chuān’ shuí jiù chuān.” Tā zìjǐ xiān zhuāle yīgè, dǎkāi yī kàn shì “bù”, jiēzhe Shuǐshēng hé Dà Lǐ liǎng rén dōu zhuā de shì “bù”, hái méi děng wǒ qù zhuā, Wěidōng yǐ bǎ nà jiūr rēng jìnle hé lǐ. Dàjiā bùróng wǒ duō shuō, jiù bǎ nà jiàn jiùshēngyī láo láo de tào zài wǒ de shēnshang. . .

Jiéguǒ, Wěidōng méiyǒu pá shàng’àn.

Hòulái wǒ cái zhīdào, nà sì gè jiūr dōu shì “bù”, shì Wěidōng tāmen gùyì nàyàng zuò de, Wěidōng hái duì tāmen shuō, tāmen sān gè yīdìng xiān zhuā, fēi ràng wǒ chuān shàng nà jiàn jiùshēngyī bùkě. . .

Wǒ guì zài Wěidōng mù qián tòngkǔ bùzhǐ. Cóngcǐ, wǒ dǒngdéle rén shìjiān shénme jiào “qíngyì”.

Dịch nghĩa: 

Bốc thăm
Vừa mới tốt nghiệp đại học và đi làm, tôi đã phải trải qua một lần thử thách giữa sự sống và cái chết.

Mùa thu năm đó, tôi đến cửa sông Hoàng Hà để tham gia thực tập xã hội, được phân công lên một con tàu để trông coi máy móc. Hôm ấy, nước sông Hoàng Hà dâng cao dữ dội, đến tối vẫn chưa có dấu hiệu rút xuống, dòng lũ cuốn con tàu của chúng tôi lắc lư dữ dội.

Đột nhiên, tôi nghe thấy “rắc, rắc” mấy tiếng, ba sợi dây neo lần lượt bị đứt. Chỉ trong chớp mắt, con tàu của chúng tôi như một con ngựa hoang, bị dòng nước xiết cuốn trôi nhanh chóng về hạ lưu.

Nơi này chỉ cách biển chưa đầy 60 km, hai bên bờ không có bóng người, xung quanh chỉ có tiếng gió gào thét và tiếng sóng Hoàng Hà cuộn trào dữ dội. Chúng tôi dần dần nhận ra rằng tình hình đang trở nên nguy hiểm.

Một giờ trôi qua… rồi một giờ nữa trôi qua… chúng tôi đã có thể ngửi thấy mùi vị của biển, nhưng vẫn không nghĩ ra được cách nào để tự cứu mình. Sau khi bàn bạc, mọi người quyết định nhảy xuống sông và bơi vào bờ. Nhưng vấn đề là cả bốn người chúng tôi chỉ có một chiếc áo phao, ai cũng không muốn mặc nó.

Lưu Thủy Sinh, người lái tàu chính, nói rằng anh ấy lớn lên bên dòng Hoàng Hà, bơi rất giỏi, vì vậy áo phao nên để cho người không biết bơi.
Vương Vĩ Đông, người lái tàu phụ, nói rằng anh là anh cả trong nhóm, làm anh cả thì phải có trách nhiệm, nên cũng không thể mặc áo phao. Thực ra, năm đó anh ấy mới chỉ 22 tuổi.
Đại Lý thì đưa ra một lý do khiến người khác phải ái ngại. Anh nói: “Tôi chưa từng được đi học, áo phao này nên để cho cậu sinh viên mặc. Đất nước ta nuôi dưỡng một sinh viên đại học không dễ dàng gì.”
Nghe những lời này, tôi cảm thấy lòng mình nóng ran, nước mắt suýt nữa rơi xuống. Nhưng ngay lúc đó, tôi không tìm được lý do nào để từ chối. Dù mọi người nhiều lần thuyết phục, tôi vẫn kiên quyết không chịu mặc chiếc áo phao ấy.

Tôi đề nghị:
“Chúng ta hãy bốc thăm đi, ai bốc trúng thì người đó mặc.”

Ba người kia nhìn nhau, rồi gật đầu đồng ý. Vương Vĩ Đông nhanh chóng làm xong những tờ thăm, nói:
“Ba tờ ‘không’, một tờ ‘mặc’, ai bốc trúng tờ ‘mặc’ thì phải mặc áo phao.”

Anh ấy bốc thăm đầu tiên, mở ra là “không”.
Tiếp theo, Thủy Sinh và Đại Lý cũng bốc được “không”.
Chưa kịp để tôi bốc, Vĩ Đông đã vội vã ném tờ thăm còn lại xuống sông.

Không để tôi phản ứng, mọi người liền nhanh chóng mặc áo phao vào cho tôi…

Vĩ Đông đã không thể bơi vào bờ…

Sau này tôi mới biết rằng cả bốn tờ thăm đều là “không”, đó là do Vĩ Đông và các anh cố ý làm như vậy. Trước đó, Vĩ Đông đã nói với họ rằng cả ba người họ phải bốc trước, nhất định phải để tôi mặc chiếc áo phao ấy…

Tôi quỳ trước mộ của Vĩ Đông, đau đớn không nguôi.
Kể từ giây phút đó, tôi mới thực sự hiểu được thế nào là tình nghĩa trong cuộc đời này.

Bài đọc 2

自然 之子

生死关头

一九八九年 发生 在 洛杉矶 的 大 地震,几分钟内,使 几十万 人 受到 伤害。

在 混乱 中,一个 年轻 的 父亲 安顿 好 受伤 的 妻子,便 冲 向 他 七岁 儿子 上学 的 学校。他 眼前,那个 以往 充满 孩子们 欢声笑语 的 漂亮 的 三层 教学楼,已 变成 一片 废墟。

他 顿时 感到 眼前 一片黑,大喊:“杰克,我 的 儿子!”跪 在 地上 大哭了 一阵 后,他 突然 想起 自己 常 对 儿子 说 的 一句话:

“不论 发生 什么,爸爸 总 跟 你 在一起!”他 坚定 地 站起身,向 那片 废墟 走去。

他 知道 儿子 的 教室 在 楼 的 一层 东南角,就 快步 走到 那里,开始 动手 扒。

这时,不断 有 孩子 的 父母 急匆匆 地 赶来,看到 这片 废墟,他们 哭着 大喊:“我 的 儿子!”“我 的 儿子!”哭喊 过 后,他们 绝望 地 离开 了。有 些 人 上来 拉住 这位 父亲 说:“不行 了,太 晚了。他们 已经 死了。”这位 父亲 双眼 直直 地 看着 这些 好心人,问道:“谁 来 帮 我 一把?”没 人 回答,他 就 自己 接着 挖。

一位 警察 劝他:“太 危险了。随时 可能 起火 爆炸,快 离开 吧。”

这位 父亲 说:“你 能 不能 帮 我 一下?”

警察 走 过来:“我 知道,你 很 难过,难以 控制 自己,可 这样 不但 不 利于 你 自己,对 别人 也 有 危险,你 还是 回家 去 吧。”

“你 能 不能 帮 我 一把?”

人们 摇摇头 走开了,都 认为 这位 父亲 因为 失去 孩子 而 有点儿 精神失常。

这位 父亲 心中 只 有一个 念头:“儿子 在 等着 我。”

他 挖了 八小时,十二小时,二十四 小时,没 人 再来 阻挡 他。他 满脸 灰尘,双眼 布满血丝,衣服 破烂,身上 到处 是 血迹。到 第三十六 小时,他 突然 听见 地下 传出 孩子 的 声音:“爸爸,是 你 吗?”

是 儿子 的 声音!父亲 大喊:“杰克!杰克!”

“爸爸,真的 是 你 吗?”

“是 我,是 爸爸!”

“我 告诉 同学们 不要 害怕,说 只要 我 爸爸 活着 就 一定 来 救我,也 就 能 救出 大家。因为 你 说 过,不论 发生 什么,总 会 和 我 在一起!”

“你 现在 怎么样?有 几个 孩子 活着?”

“我们 这里 有 十四个 同学,都 活着,我们 都 在 教室 的 墙角,房顶 塌下来架了 个 大 三角形,我们 都 没 被 砸着。”

父亲 大声 向 四周 呼喊:“这里 有 十四个 孩子,都 活着!快 来 人 啊。”

过路 的 人 都 跑 过来 帮忙。

五十 分钟 后,他们 打开了一个 小 出口。

父亲 声音 颤抖 地 说:“出来 吧!杰克。”

“不!爸爸。先 让 别的 同学 出去!我 不怕。”

儿子 是 最后 一个 出来 的。

这 对 了不起 的 父子 紧紧 拥抱 在一起。

Shēngsǐ guāntóu

Yījiǔbājiǔ nián fāshēng zài Luòshānjī de dà dìzhèn, jǐ fēnzhōng nèi, shǐ jǐ shí wàn rén shòudào shānghài.

Zài hùnluàn zhōng, yīgè niánqīng de fùqīn āndùn hǎo shòushāng de qīzi, biàn chōng xiàng tā qī suì érzi shàngxué de xuéxiào. Tā yǎnqián, nàgè yǐwǎng chōngmǎn háizimen huānshēng xiàoyǔ de piàoliang de sān céng jiàoxué lóu, yǐ biàn chéng yīpiàn fèixū.

Tā dùnshí gǎndào yǎnqián yīpiàn hēi, dà hǎn:“Jiékè, wǒ de érzi!” Guì zài dìshàng dà kūle yīzhèn hòu, tā tūrán xiǎngqǐ zìjǐ cháng duì ér zi shuō de yījù huà:

“Bùlùn fāshēng shénme, bàba zǒng gēn nǐ zài yīqǐ!” Tā jiāndìng de zhàn qǐshēn, xiàng nà piàn fèixū zǒu qù.

Tā zhīdào érzi de jiàoshì zài lóu de yī céng dōngnán jiǎo, jiù kuài bù zǒu dào nàlǐ, kāishǐ dòngshǒu bā.

Zhè shí, bùduàn yǒu háizi de fùmǔ jícōngcōng de gǎn lái, kàn dào zhè piàn fèixū, tāmen kūzhe dà hǎn:“Wǒ de érzi!”“Wǒ de érzi!” Kū hǎn guòhòu, tāmen juéwàng de líkāile. Yǒuxiē rén shànglái lā zhù zhè wèi fùqīn shuō:“Bùxíngle, tài wǎnle. Tāmen yǐjīng sǐle.” Zhè wèi fùqīn shuāngyǎn zhí zhí de kànzhe zhèxiē hǎoxīn rén, wèn dào:“Shuí lái bāng wǒ yī bǎ?” Méi rén huídá, tā jiù zìjǐ jiēzhe wā.

Yī wèi jǐngchá quàn tā:“Tài wēixiǎnle. Suíshí kěnéng qǐhuǒ bàozhà, kuài líkāi ba.”

Zhè wèi fùqīn shuō:“Nǐ néng bùnéng bāng wǒ yīxià?”

Jǐngchá zǒu guòlái:“Wǒ zhīdào, nǐ hěn nánguò, nányǐ kòngzhì zìjǐ, kě zhèyàng bùdàn bù lìyú nǐ zìjǐ, duì biérén yěyǒu wēixiǎn, nǐ háishì huí jiā qù ba.”

“Nǐ néng bùnéng bāng wǒ yī bǎ?”

Rénmen yáo yáotóu zǒu kāile, dōu rènwéi zhè wèi fùqīn yīnwèi shīqù háizi ér yǒudiǎnr jīngshén shīcháng.

Zhè wèi fùqīn xīnzhōng zhǐyǒu yīgè niàntou:“Érzi zài děngzhe wǒ.”

Tā wāle bā xiǎoshí, shí’èr xiǎoshí, èrshísì xiǎoshí, méi rén zàilái zǔdǎng tā. Tā mǎn liǎn huīchén, shuāngyǎn bù mǎn xiě sī, yīfu pòlàn, shēnshang dàochù shì xiějī. Dào dì sānshíliù xiǎoshí, tā tūrán tīngjiàn dìxià chuán chū háizi de shēngyīn:“Bàba, shì nǐ ma?”

Shì érzi de shēngyīn! Fùqīn dà hǎn:“Jiékè! Jiékè!”

“Bàba, zhēn de shì nǐ ma?”

“Shì wǒ, shì bàba!”

“Wǒ gàosu tóngxuémen bùyào hàipà, shuō zhǐyào wǒ bàba huózhe jiù yīdìng lái jiù wǒ, yě jiù néng jiùchū dàjiā. Yīnwèi nǐ shuōguò, bùlùn fāshēng shénme, zǒng huì hé wǒ zài yīqǐ!”

“Nǐ xiànzài zěnme yàng? Yǒu jǐ gè háizi huózhe?”

“Wǒmen zhè lǐ yǒu shísì gè tóngxué, dōu huózhe, wǒmen dōu zài jiàoshì de qiángjiǎo, fáng dǐng tā xiàlái jiàle gè dà sānjiǎoxíng, wǒmen dōu méi bèi zázhe.”

Fùqīn dàshēng xiàng sìzhōu hūhǎn:“Zhè lǐ yǒu shísì gè háizi, dōu huózhe! Kuài lái rén a.”

Guòlù de rén dōu pǎo guòlái bāngmáng.

Wǔshí fēnzhōng hòu, tāmen dǎkāile yīgè xiǎo chūkǒu.

Fùqīn shēngyīn chàndǒu de shuō:“Chūlái ba! Jiékè.”

“Bù! Bàba. Xiān ràng bié de tóngxué chūqù! Wǒ bùpà.”

Érzi shì zuìhòu yīgè chūlái de.

Zhè duì liǎobùqǐ de fùzǐ jǐn jǐn yōngbào zài yīqǐ.

Dịch nghĩa

Ranh giới giữa sự sống và cái chết
Năm 1989, một trận động đất lớn xảy ra ở Los Angeles, chỉ trong vài phút đã khiến hàng trăm nghìn người bị thương.

Trong lúc hỗn loạn, một người cha trẻ tuổi sau khi sắp xếp cho người vợ bị thương ổn định, liền lao đến trường tiểu học của cậu con trai bảy tuổi.

Khi đến nơi, trước mắt anh không còn là tòa nhà ba tầng đầy tiếng cười trẻ thơ như trước nữa, mà chỉ còn lại một đống đổ nát hoang tàn.

Anh bỗng cảm thấy trời đất tối sầm, hét lên: “Jack, con trai của bố!” rồi quỳ xuống đất khóc nức nở. Nhưng ngay sau đó, anh chợt nhớ đến câu mà mình luôn nói với con trai:

“Dù có chuyện gì xảy ra, bố sẽ luôn ở bên con!”

Nghĩ đến đây, anh đứng bật dậy, kiên định bước đến khu vực đổ nát và bắt đầu đào bới.

Anh biết rằng lớp học của con trai nằm ở tầng một, góc đông nam của tòa nhà, nên lập tức chạy đến đó và bắt đầu đào bới bằng tay không.

Lúc này, các bậc phụ huynh khác cũng hối hả chạy đến. Khi nhìn thấy đống đổ nát, họ gào khóc gọi tên con mình, nhưng sau đó họ dần tuyệt vọng rời đi.

Một số người khuyên anh: “Không còn hy vọng nữa đâu, quá muộn rồi. Bọn trẻ đều đã không qua khỏi…”

Anh nhìn thẳng vào họ, hỏi: “Ai sẽ giúp tôi?”

Không ai trả lời. Anh tiếp tục đào.

Một cảnh sát đến can ngăn:
“Rất nguy hiểm! Đống đổ nát có thể bốc cháy hoặc phát nổ bất cứ lúc nào, anh hãy mau rời khỏi đây!”

Người cha hỏi: “Anh có thể giúp tôi không?”

Viên cảnh sát thở dài: “Tôi hiểu anh đang rất đau lòng, nhưng làm vậy không chỉ gây nguy hiểm cho chính anh, mà còn ảnh hưởng đến những người khác. Anh hãy về nhà đi.”

Người cha vẫn lặp lại câu hỏi của mình: “Anh có thể giúp tôi không?”

Mọi người lắc đầu rời đi, họ nghĩ rằng anh vì quá đau buồn mà đã mất trí.

Nhưng trong đầu người cha lúc đó chỉ có một suy nghĩ duy nhất:

“Con trai tôi đang đợi tôi!”

Anh đào liên tục trong 8 tiếng… 12 tiếng… 24 tiếng…

Không còn ai ngăn cản anh nữa. Khuôn mặt anh đầy bụi đất, mắt đỏ ngầu, quần áo rách bươm, cơ thể dính đầy vết thương.

Đến giờ thứ 36, bỗng anh nghe thấy một giọng nói từ dưới lòng đất:

“Bố ơi, có phải bố không?”

Là giọng của con trai anh!

Người cha hét lên: “Jack! Jack!”

“Bố ơi, thật sự là bố sao?”

“Là bố đây! Bố đây con ơi!”

“Bố ơi, con đã nói với các bạn đừng sợ, con bảo rằng chỉ cần bố còn sống, nhất định bố sẽ đến cứu con và cứu tất cả chúng con. Vì bố đã nói rằng dù có chuyện gì xảy ra, bố sẽ luôn ở bên con!”

“Bây giờ con sao rồi? Có bao nhiêu bạn còn sống?”

“Bọn con có 14 người đang ở góc lớp, mái nhà bị sập nhưng tạo thành một khoảng trống hình tam giác, nhờ vậy bọn con không bị thương.”

Người cha lập tức hét lớn:

“Ở đây có 14 đứa trẻ còn sống! Hãy đến giúp tôi!”

Những người đi ngang qua vội vã chạy đến giúp đỡ.

Sau 50 phút, họ mở được một lối thoát nhỏ.

Giọng người cha run rẩy: “Ra ngoài đi, Jack!”

Nhưng cậu bé kiên quyết lắc đầu:

“Không, bố ơi! Hãy để các bạn ra trước! Con không sợ.”

Jack là người cuối cùng bước ra.

Ngay khi cậu vừa ra khỏi đống đổ nát, hai cha con ôm chầm lấy nhau trong nước mắt, cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ hết tình yêu và sức mạnh của niềm tin.

→ Hai câu chuyện không chỉ khiến chúng ta cảm động, mà còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tình người và ý nghĩa của sự hy sinh. Trong những thời khắc nguy cấp, con người vẫn có thể đặt mạng sống của người khác lên trên chính mình, chỉ để đổi lấy một tia hy vọng cho đồng đội, cho người thân yêu.

Dù là những người bạn trên con tàu Hoàng Hà hay người cha trong trận động đất Los Angeles, tất cả họ đều có chung một điểm: sẵn sàng hy sinh vì người khác. Cuộc sống vốn vô thường, nhưng chính tình yêu thương và lòng dũng cảm đã khiến thế giới này trở nên ấm áp và đáng trân trọng hơn bao giờ hết.

→Xem tiếp Bài 91: Giáo trình Hán ngữ Quyển 6 Phiên bản cũ

Du Bao Ying

Du Bao Ying là giảng viên tại Trung tâm Chinese. Cô có bằng thạc sĩ về Ngôn ngữ học và Ngôn ngữ Trung Quốc và đã dạy hàng nghìn sinh viên trong những năm qua. Cô ấy cống hiến hết mình cho sự nghiệp giáo dục, giúp việc học tiếng Trung trở nên dễ dàng hơn trên khắp thế giới.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button